Trúc Bạch hồ

Tác giả: Hồ Xuân Hương | Năm sáng tác: Chưa rõ

“Trúc Bạch hồ” của Hồ Xuân Hương là bài thơ gợi tả vẻ đẹp thanh bình, tĩnh lặng của hồ Trúc Bạch, đồng thời gửi gắm nỗi cô đơn và nỗi buồn sâu kín của thi nhân.

 

Một chiếc thuyền nan một mái chèo,
Đáy hồ đứng lặng nước trong veo.
Quanh co thành cỏ[1] đường lai láng,
Chen chóc nhà thôn vẻ gấm thêu.
Ngũ Xá[2] cầu dài đường khách thẳng,
Châu Long[3] thềm rộng mái chùa cao.
Đồn rằng Trúc Bạch vui hơn trước,
Nay mới hay rằng lắm thú yêu.

Trúc Bạch hồ - Hồ Xuân Hương

 

Xem thêm >>> Tình có theo ai

Thể loại:
Trích dẫn:

(Theo bản Xuân Hương thi vịnh)

Khảo dị:

- Bản Âm ca tập

Vịnh Trúc Bạch hồ

Một chiếc thuyền nan một mái chèo,
Đáy hồ ‡ lay láy nước trong veo.
Quanh co ‡ chòm cỏ đường lai láng,
‡ Chim chóc nhà thôn vẻ gấm thêu.
Ngũ ‡ Xã cầu dài đường khách thẳng,
‡ Vây rồng thềm rộng mái chùa cao.
Đồn rằng Trúc Bạch vui ‡ từ trước,
Nay mới hay rằng lắm thú yêu.

Sách Văn đàn bảo giám chép tác giả bài này của quan Hiệp Đào, tức Đào Tấn:

Một chiếc thuyền nan một mái chèo,
Đáy hồ ‡ lặng sóng nước trong veo.
Quanh co thành cỏ đường lai láng,
Chen chóc nhà thôn ‡ cảnh gấm thêu.
Ngũ ‡ Xã kiều dài đường khách thẳng,
Châu Long thềm rộng ‡ nóc chùa cao.
Đồn rằng Trúc Bạch vui ‡ từ trước,
Nay mới hay rằng lắm thú yêu.

 

Chú thích:

  • [1] Khu vực hồ Trúc Bạch nằm ở vùng Cửa Bắc của thành Thăng Long. Bản đồ Hà Nội năm Minh Mệnh 12 (1831) còn cho thấy hồ Trúc Bạch và cả hồ Mã Cảnh (hồ Cổ Ngựa) trải dài từ đê Yên Phụ đến giáp Hàng Than, có con đường từ chỗ tường thành ở cổng Chính Bắc ra tận đê Yên Phụ; thành cỏ chính là chỉ bức tường thành có cỏ mọc ở Cửa Bắc này.
  • [2] Chỉ bán đảo Ngũ Xá, gần hồ Trúc Bạch. Gọi Ngũ Xá là do có 5 làng (Đề Cầu, Kim Tháp, Quỳnh Đôi, Lê Xá, An Nhuế) thuộc huyện Siêu Loại, trấn Kinh Bắc, hồi cuối Lê về Thăng Long lập nghiệp, chuyên đúc đồng để bán ở Kinh Thành: “Lửa đóm ghen Ngũ Xá xây lò” (Nguyễn Huy Lượng - Tụng Tây Hồ phú).
  • [3] Tương truyền chùa Châu Long được dựng cuối đời Trần (thế kỷ XIII) trên gò Châu Lăng trong hồ Trúc Bạch, sau gọi chệch thành Châu Long và lấy làm tên chùa. Trong chùa còn bia ghi việc trùng tu vào năm Mậu Thìn, niên hiệu Gia Long thứ 7 (1808).

 

Thẻ: