Lam Quan hoài cổ 藍關懷古 • Nhớ Lam Quan xưa

Tác giả: Nguyễn Trãi | Năm sáng tác: Chưa rõ

藍關懷古

行盡千山與萬山,
蒴風吹起滿藍關。
君王曾此思忠諫,
瘴海遙觀匹馬還。

 

Lam Quan hoài cổ

Hành tận thiên sơn dữ vạn sơn,
Sóc phong xuy khởi mãn Lam Quan[1].
Quân vương tằng thử tư trung gián[2],
Chướng hải dao quan thất mã hoàn[3].

 

Dịch nghĩa

Đi mãi tận nghìn non vạn núi
Ngọn núi bắc nổi lên khắp ải Lam Quan
Vì vua thời ấy chẳng nghe lời can gián của kẻ trung
Từng có cảnh con ngựa không người cưỡi trở về từ quan ải xa và vùng biển độc địa.


藍關懷古



Lam Quan hoài cổ

Nhớ Lam Quan xưa

行盡千山與萬山,
Hành tận thiên sơn dữ vạn sơn,
Đi mãi tận nghìn non vạn núi

蒴風吹起滿藍關。
Sóc phong xuy khởi mãn Lam Quan.
Ngọn núi bắc nổi lên khắp ải Lam Quan

君王曾此思忠諫,
Quân vương tằng thử tư trung gián,
Vì vua thời ấy chẳng nghe lời can gián của kẻ trung

瘴海遙觀匹馬還。
Chướng hải dao quan thất mã hoàn.
Từng có cảnh con ngựa không người cưỡi trở về từ quan ải xa và vùng biển độc địa.

Trích dẫn:
Nguyễn Trãi toàn tập của Đào Duy Anh không có bài này.

Chú thích:

[1]
Cửa ải ở huyện Thương thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc.

» Có 2 bài cùng chú thích:
  • (Hàn Dũ)
  • (Ngô Thì Nhậm)
[2]
Lời can ngăn của người tôi trung. Tác giả ngụ ý về Hàn Dũ, quan nhà Đường dưới thời vua Hiển Tông (Trung Quốc), không được vua nghe lời can gián còn bị giáng chức và bắt đi làm thứ sử ở Triều Châu là nơi xa xôi. Hàn Dũ có bài thơ Tự Vịnh, trong đó có hai câu: “Vân hoành Tần lãnh gia hà tại, Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền” (Mây giăng ngang núi Tần, nhà ở nơi đâu? Tuyết che lấp ải Lam, con ngựa không chịu tiến bước). Tựa đề bài thơ của Nguyễn Trãi gợi ý ải Lam này.
[3]
Con ngựa (một mình) trở về. Ý nói người trung thần bị đày ải có thể chết và con ngựa sẽ trở về không.
Thẻ: