Hồi 18: Kiều gặp Từ Hải
Cửa từ bi lại gặp yêu ma, sa cơ đoạ lạc;
Miền hoa khói trổ nghề trăng gió, gặp gỡ anh hùng.
2035. Chùa đâu trông thấy nẻo xa,
Rành rành “Chiêu Ẩn am” ba chữ bài.
Xăm xăm gõ mé cửa ngoàicửa ướm lời,
Trụ trì nghe tiếng rướcliền mời vào trong.
Thấy màuâu ăn mặc nâu sồng,
2040. Giác Duyên sư trưởng lành lòng liền thương.
Gạn gùng ngành ngọn cho tường,
Lạ lùng, nàng hãy tìm đường nói quanh:
“Tiểu thiền quê ở Bắc kinh,
Quy sư, quy Phật, tu hành bấy lâu.
2045. Bản sư rồi cũng đến sau,
Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh.”
Rày vâng diện hiến rành rành,
Chuông vàng, khánh bạc bên mình giở ra.
Xem quarồi, sư mới dạy qua:
2050. “Phải nơini Hằng Thuỷ là ta hậu tình.
Chỉn e đường sá một mình,
Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày.”
Gửi thân được chốn am mây,
Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.
2055. Kệ kinh câu cũsau thuộc lòng,
Hương đèn việc cũsự cũviệc sau, trai phòng quen tay.
Sớm khuya lá bốimái phướn mây,
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nệnnặng sương.
Thấy nàng thông tuệ khác thường,
2060. Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân.
Cửa thiền vừa cữbuổiđã cuối xuân,
Bóng hoa đầyrợp đất, vẻ ngân ngang trời.
Gió quang, mây tạnh, thảnh thơi,
Có người đàn việt lên chơi cửa già.
2065. Giở đồ chuông khánh xem qua,
Khen rằng: “Khéo giống của nhà Hoạn nương!”
Giác Duyên thựcthiệt ý lo lường,
Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau.
Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu,
2070. Sự mình, nàng mới gót đầu bày ngay:
“Bây giờ sự đã dường này,
Phận hèn dầu rủi, dầu may tại người.”
Giác Duyên nghe nói, rụng rời,
Nửa thương, nửa sợ, bồi hồi chẳng xong.
2075. Rỉ tai mới kể sựnghe, nàng mới giãi lòng:
“Ở đây, cửa Phật là không hẹp gì.
E chăng những sự bất kỳ,
Để nàng cho đến thế thìnỗi gìnỗi thìthế này cũng thương!
Lánh xa, trước liệu tìm đường,
2080. NgồiĐứng chờ nước đến nên dườngchân giườngbằng dường còn quê!”
Có nhà họmụnàng Bạc bên kia,
Am mây quen lối đi về dầu hương.
Nhắn sang, dặn hếthỏi mọi đường,
Dọn nhà hãy tạm cho nàng trúnghỉchứa chân.
2085. Những mừng được chốn an thân,
Vội vàng nào kịp tính gần, tính xa.
Nào ngờ cũngnhững tổ bợm già,
Bạc Bà học với Tú Bà đồng môn!
Thấy nàng mặnlạt phấn, tươisạm son,
2090. Mừng thầm được buổidịpmối bán buôn có lời.
Hư không đặt đểbỏ nên lời,
Nàng đà lớn sựnhớn nháclớn sợ, rụng rời lắm phen.
Mụ càng xua đuổixua giụcxui đuổi cho liền,
Lấy lời hung hiểm, ép duyên Châu Trần.
2095. Rằng: “Nàng muôn dặm một thân,
Lại mang lấy tiếng dữ gần, lành xa.
KhéoGiốngHại oan gia, của phá gianhà!
Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây?
Kíp toan kiếm chốn xe dây,
2100. Không dưng chưa dễ mà bay đường trời!
Nơi gần thì chẳng tiện nơi,
Nơi xa thìcũngđược chẳng có người nào xa.
NàyCó chàng Bạc Hạnh cháu nhà,
Cùng trong thân thích ruột rà, chẳng ai.
2105. Cửa nhàhàng buôn bán châu Thai,
Thực thà có một, đơn sai chẳng hềngờ.
Thế nào nàng cũng phải nghe,
Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai.
Bấy giờnay ai lại biết ai,
2110. Dầu lòng bể rộng, sông dài thênh thênh.
Nàng dù quyết chẳngchẳng quyết thuận tình,
Trái lời nẻo trước, luỵ mình đến sau!”
Nàng càng mặt ủ, mày chau,
Càng nghe mụ nói, càng đau như dần.
2115. Nghĩ mình túng đất, sẩynhắc chân,
Thế cùng, nàng mới xa gần thở than:
“Thiếp như con én lạc đàn,
Phải cung, rày đã sợ làn cây conglờn với cung.
Cùng đường dù tính chữ tòng,
2120. Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao?
NữaSợ khi muôn một thế nào,
Bán hùm buôn sóiquỷhổ, chắc vào lưng đâu?
DùNào ai lòng có sở cầu,
Tâm minh, xin quyết với nhau một lời.
2125. Chứng minh có đất, có trời,
Bấy giờ vượt bể, ra khơi quản gì!”
Được lời, mụ mới ra đi,
Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh.
Một nhà dọn dẹp linh đình,
2130. Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp nhanghương.
Bạc sinh quỳ xuống vội vàng,
Quá lời nguyệnxin hết thành hoàng, thổsĩ công.
TrướcNgoài sân lòng đã giãitỏ lòng,
Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên.
2135. Thành thân, mới rước xuống thuyền,
Thuận buồm một lá, xuôi miền châu Thai.
Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi,
Bạc sinh lên trước tìm nơi mọihỏi ngày.
Cũng nhà hành viện xưa nay,
2140. Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người.
Xem người, định giá, vừa rồi,
Mối hàng một, đã ra mười thì buôngphải buôngthì buôn.
MượnMướn người, thuê kiệu, rước nàng,
Bạc đem mặt bạc, kiếm đường cho xa.
2145. Kiệu hoa đặt trước thềm hoa,
Bên trong thấy một mụ ra vội vàng.
Đưa nàng vào lạy gia đường,
Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh!
ThoắtThoạt trông nàng đã biết tình,
2150. Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao.
Chém chaGớm cho cái số hoa đào,
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!
Nghĩ đời mà ngán cho đời!
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!
2155. Tiếc thay nước đã đánh phèn,
Mà cho bùn lại vẩnliên lên mấy lần!
Hồng quân với khách hồng quần,
Đã xoay đến thế còn vầnhờn chưa tha.
Lỡ từ lạcnước bước, bước ra,
2160. Cái thân liệu những từ nhà liệu đi.
[…]
Đầu xanh đã tội tình gì,
Má hồng đền quá nửa thì chưa thôi?
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặtmá phấn cho rồi ngày xanh.
2165. Lần thâulừa gió mát trăngđêm thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình sangđến chơi.
Râu hầmhùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào,
2170. Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài.
Đội trời, đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải, vốn người Việt Đông.
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
2175. Qua chơi thấynghe tiếng nàng Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cũngdễ xiêu anh hùng.
Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.
Từ rằng: “Tâm phúcphủ tương cờ,
2180. Phải người trăng gió, vậtcâu vờ hay sao?
Bấy lâu nghe tiếng má đào,
Mắt xanh chẳng để ai vào, cóvào phảivào động không?
Một đời được mấy anh hùng,
Bõ chi cá chậu, chim lồng mà chơi?”
2185. Nàng rằng: “Người dạy quá lời,
Thân này còn dám xem ai làm thường!
ChútXót riêng chọn đá, thử vàng,
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu?
Còn như vào trước, ra sau,
2190. Ai cho kén chọn vàng thau tại mình?”
Từ rằng: “Lời nói hữu tình!
Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.
Lại đây xem lại cho gần,
Phỏng tin được một vài phần hay không?”
2195. Thưa rằng: “Lượng cả bao dung,
Tấn Dương được thấy mâybay rồng có phen.
Rộng thương cỏ nội, hoa hèn,
Chút thân bèo bọt, dám phiền mai sau.”
Nghe lời vừa ý, gật đầu,
2200. Cười rằng: “Tri kỷ trước sauthấy âu mấy người?
Khen cho con mắt tinh đời,
Anh hùng, đoánđứngbiết giữa trần ai mới già!
Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung, nghìn tứ, cũng là có nhau!”
2205. Hai bên ý hợp tâm đầu,
Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!
Ngỏ lời nóiSự lòng nói với băng nhân,
TiềnHai trăm lại cứ nguyên ngânquân phátchiếu hoàn.
BuồngPhòng riêng, sửa chốn thanh nhàn,
2210. Đặt giường thất bảo, xâyvây màn bát tiên.
Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền sánhbói phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắtchợt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm, yên ngựa, lên đàng thẳng giong.
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi, thiếp cũng mộtquyết lòng xin đi.”
Từ rằng: “Tâm phúcphủ tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêngbề dậy đất, bóng tinh rợp đường;
Làm cho rõtỏ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
2225. Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bậnbạn, biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đónđó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau, vội gì?”
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230. Gió đưamây bằng tiện đã lìasí đã lìađã đến kỳ dặm khơi.
Nàng thìtừ chiếc bóng song mai,
Đêm thâu đằng đẵng, nhặtngày cài then mây.
Sân rêu chẳng vẽ dấu giày,
Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân.
2235. Đoái thươngtrông muôn dặm tử phần,
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa.
Xót thay huyên cỗi,cầm xuân già,
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi?
Chốc là mười mấy năm trời,
2240. Còn ra khi đã da mồi, tóc sương.
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ýtơ ngótơ ý, còn vương tơ lòng.
Duyên em dầu nối chỉtơ hồng,
MayLẽ ra khi đã tay bồng, tay mang.
2245. Tấc lòng cố quốc, tha hương,
Đường kia, nỗi nọ, ngổn ngang bời bời.
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,
Đã mòn con mắt, phương trời đăm đăm.
Đêm ngày luống những âm thầm,
2250. Lửa binh đâu đã ầm ầm mộtbốn phương.
Ngất trời sát khí mơ màng,
Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh.
Người quen thuộc, kẻ chung quanh,
Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.