Chùa Trấn Bắc Chơi chùa Trấn Quốc

Tác giả: Hồ Xuân Hương | Năm sáng tác: Chưa rõ

Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu,
Khách đi qua đó chạnh niềm đau.[1]

Mấy toà sen rớt mùi[2] hương ngự[3],
Năm thức[4] mây phong nếp áo chầu.
Sóng lớp phế hưng[5] coi đã rộn,
Chuông hồi[6] kim cổ lắng càng mau.
Người xưa, cảnh cũ, nào[7] đâu tá?
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu[8]!

Thể loại:
Trích dẫn:
Tiêu đề trong Văn đàn bảo giám chép là Chơi chùa Trấn Quốc. Chùa Trấn Bắc[9] ở bờ phía đông Hồ Tây, Hà Nội, nguyên tên là chùa An Quốc, được xây từ đời Trần, đến năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) vua Lê Thần Tông cho làm lại và đổi tên là chùa Trấn Quốc. Năm Dương Hoà thứ 5 (1639), chúa Trịnh Tráng lại cho sửa sang rộng thêm và đổi là chùa Trấn Bắc. Vua Lê, chúa Trịnh thường ngự ở đây thưởng sen.

Bài thơ này về văn bản khá phức tạp. Bài chép trong Tạp thảo tập 雜草集 (ký hiệu A.3159) và Xuân Hương thi sao 春香詩抄 (AB.620), ghi là của Hồ Xuân Hương, nhưng khác hai câu đầu: “Qua chơi Trấn Bắc cảnh buồn rầu, Ngao ngán tình xưa đã lạnh mầu”. Trong Xuân Hương thi tuyển 春香詩選 (R.97) và Xuân Hương thi ký 春香詩記, (R.193, Thư viện Quốc gia Hà Nội), bài thơ này cũng ghi là của Hồ Xuân Hương, nhưng chỉ có 4 câu giữa. Quốc văn tùng ký 國文叢記 (AB.383) ghi là của Bà huyện Thanh Quan và khác hai câu đầu: “Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu, Chạnh niềm kim cổ nghĩ mà đau”.

Chú thích:

[1]
Có bản chép là “Qua chơi Trấn Quốc cảnh buồn rầu, Ngao ngán tình xưa dạ chạnh đau”, hoặc “Ngoài cửa hành cung cỏ dãi dầu, Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau”. Hành cung là cung điện xây ở ngoài kinh thành để khi vua đi chơi thì nghỉ chân ở đó.
[2]
Văn đàn bảo giám chép là “hơi”.

» Có 2 bài cùng chú thích:
  • (Nguyễn Du)
  • (Nguyễn Huy Lượng)
[3]
Hơi của vua còn vương lại.
[4]
Năm vẻ, năm màu. Thời xưa quan niệm mây hội đủ năm màu là báo thời buổi thái bình.
[5]
Bỏ đi và hưng thịnh, chỉ các triều đại thay đổi: Lê, Tây Sơn, Nguyễn.

» Có 1 bài cùng chú thích:
  • (Dương Bá Trạc)
[6]
Có bản chép là “dồn”.

» Có 5 bài cùng chú thích:
  • (Mạnh Hạo Nhiên)
  • (Cao Khải)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Ngô Thì Nhậm)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
[7]
Có bản chép là “đi” hoặc “đâu”.
[8]
Ý nói các vị sư trong chùa không biết gì tới thời cuộc, triều đại thay đổi ở bên ngoài đời.
[9]
( ): Chùa Trấn Quốc nằm trên một hòn đảo phía đông Hồ Tây, gần đường Thanh Niên, thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chùa có lịch sử gần 1500 năm và được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội. Thời nhà Lý và nhà Trần, đây là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long. Kiến trúc chùa có sự kết hợp hài hoà giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một hồ nước mênh mang. Chùa được dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế, 541-547), tại thôn Y Hoa, gần bờ sông Hồng, nguyên tên là chùa Khai Quốc. Đời Lê Trung Hưng (1615), chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thuý Hoa (thời Lý) và điện Hàn Nguyên (thời Trần). Trong các năm 1624, 1628 và 1639, chùa tiếp tục được trùng tu, mở rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1639 về công việc tôn tạo này. Đầu đời Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. Năm 1821, vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.

Hình: Chùa Trấn Quốc

» Có 22 nội dung nhắc tới:
  • (Bùi Cơ Túc)
  • (Cao Bá Quát)
  • (Chu Nguyễn Lâm)
  • (Hồ Xuân Hương)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Lê Thánh Tông)
  • (Lý Văn Phức)
  • (Ngô Thì Sĩ)
  • (Nguyễn Hành)
  • (Ninh Tốn)
  • (Phạm Đình Hổ)
  • (Phạm Quý Thích)
  • (Vũ Tông Phan)

[Thông tin 4 nguồn tham khảo đã được ẩn]

Thẻ: