Đề Vũ Thị từ 題武氏祠 • Đề đền thờ Vũ Thị

Tác giả: Nguyễn Khuyến | Năm sáng tác: Chưa rõ

題武氏祠

契闊三冬一節貞,
幽懷分付鬼神明。
愚夫不辨無根謗,
假父翻加不潔名。
今日江波猶有恨,
何年燈影太無情。
立祠旌節渾閒事,
詞為佳人冩不平。

 

Đề Vũ Thị từ

Khế khoát tam đông nhất tiết trinh,
U hoài phân phó quỷ thần minh.
Ngu phu bất biện vô căn báng,
Giả phụ phiên gia bất khiết danh.
Kim nhật giang ba do hữu hận,
Hà niên đăng ảnh thái vô tình.
Lập từ tinh tiết hồn nhàn sự,
Từ vị giai nhân tả bất bình.

 

Dịch nghĩa

Xa cách ba đông vẫn một niềm trinh tiết,
Nỗi nhớ nhung ngổn ngang chỉ bày tỏ với quỷ thần.
Người chồng ngu không phân biệt được vẻ ngoài của sự việc vô căn cứ,
Chứng cớ về người cha hờ càng đeo tiếng không trong sạch.
Ngày nay sóng sông vẫn còn mang mối hận,
Năm nao bóng đèn sao quá vô tình.
Dựng đền thờ, biểu dương tiết hạnh, đều là những việc làm vớ vẩn,
Lời thơ này vì người đẹp mà bày tỏ nỗi bất bình!


題武氏祠



Đề Vũ Thị từ

Đề đền thờ Vũ Thị

契闊三冬一節貞,
Khế khoát tam đông nhất tiết trinh,
Xa cách ba đông vẫn một niềm trinh tiết,

幽懷分付鬼神明。
U hoài phân phó quỷ thần minh.
Nỗi nhớ nhung ngổn ngang chỉ bày tỏ với quỷ thần.

愚夫不辨無根謗,
Ngu phu bất biện vô căn báng,
Người chồng ngu không phân biệt được vẻ ngoài của sự việc vô căn cứ,

假父翻加不潔名。
Giả phụ phiên gia bất khiết danh.
Chứng cớ về người cha hờ càng đeo tiếng không trong sạch.

今日江波猶有恨,
Kim nhật giang ba do hữu hận,
Ngày nay sóng sông vẫn còn mang mối hận,

何年燈影太無情。
Hà niên đăng ảnh thái vô tình.
Năm nao bóng đèn sao quá vô tình.

立祠旌節渾閒事,
Lập từ tinh tiết hồn nhàn sự,
Dựng đền thờ, biểu dương tiết hạnh, đều là những việc làm vớ vẩn,

詞為佳人冩不平。
Từ vị giai nhân tả bất bình.
Lời thơ này vì người đẹp mà bày tỏ nỗi bất bình!

Thể loại:
Trích dẫn:
Tuyển từ Yên Đổ tiến sĩ thi tập (VHv.1864).

Đền thờ Vũ Thị ở bờ sông Hồng thuộc huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Theo Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, đền thờ Vũ Thị Thiết có chồng họ Trương. Khi nàng có mang thì chồng đi lính, sau sinh con trai là Đản. Mỗi tối khi thắp đèn, nàng lại chỉ bóng đèn trên vách vào bảo con là “Cha đấy”. Khi chồng trở về, con nhỏ không nhận ra và nói “Cha Đản cứ đến tối mới về, mẹ đi đâu, cha đi đấy, ngồi cùng ngồi, nằm cùng nằm”. Họ Trương nghi vợ có tình riêng với người khác, mắng nhiếc và đuổi đi. Nàng phân trần không được bèn đâm đầu xuống sông tự trầm. Một đêm, hai cha con ngồi với ngọn đèn, bé Đản chỉ bóng che trên vách bảo “Cha đấy”. Họ Trương biết vợ bị oan bèn cúng giải oan. Người sau thương nàn oan khuất, lập đền thờ, nay gọi là miếu bà Trương, ở làng Trương Xá.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

Thẻ: