Dự Nhượng kiều chuỷ thủ hành 豫讓橋匕首行 • Bài hành về chiếc gươm ngắn cầu Dự Nhượng

Tác giả: Nguyễn Du | Năm sáng tác: Chưa rõ

豫讓橋匕首行

晉陽城外滔滔水,
智伯漆頭為溺器。
無人報仇誠可悲,
其臣豫讓身當之。
漆身為癩剔鬚眉,
當道乞食妻不知。
身挾匕首伏橋下,
怒視仇腹甘如飴。
殺氣凜凜不可近,
白日無光霜雪飛。
再擭再舍心不移,
臨死猶能三擊衣。
凌凌奇氣千霄上,
自此橋名更豫讓。
君臣大義最分明,
國士眾人各易尙。
愧剎人臣懷二心,
千古聞之色惆悵。
不是荊軻聶政徒,
甘人豢養輕其軀。
血氣之勇不足道,
君獨錚錚鐵丈夫。
路經三晉皆丘土,
注目橋邊如有睹。
西風凄凄寒逼人,
征馬頻頻驚失路。
匕首當時七寸長,
獨有萬丈光茫亙今古。

 

Dự Nhượng kiều chuỷ thủ hành

Tấn Dương thành ngoại thao thao thuỷ,
Trí Bá tất đầu vi niệu khí.
Vô nhân báo cừu thành khả bi,
Kỳ thần Dự Nhượng thân đương chi.
Tất thân vi lại dịch tu mi,
Đương đạo khất thực thê bất tri.
Thân hiệp chuỷ thủ phục kiều hạ,
Nộ thị cừu phúc cam như di.
Sát khí lẫm lẫm bất khả cận,
Bạch nhật vô quang sương tuyết phi.
Tái hoạch tái xả tâm bất di,
Lâm tử do năng tam kích y.
Lăng lăng kỳ khí thiên tiêu thượng,
Tự thử kiều danh canh Dự Nhượng.
Quân thần đại nghĩa tối phân minh,
Quốc sĩ chúng nhân các dị thượng.
Quý sát nhân thần hoài nhị tâm,
Thiên cổ văn chi sắc trù trướng.
Bất thị Kinh Kha Nhiếp Chính đồ,
Cam nhân hoạn dưỡng khinh kỳ khu.
Huyết khí chi dũng bất túc đạo,
Quân độc tranh tranh thiết trượng phu.
Lộ kinh Tam Tấn giai khâu thổ,
Chú mục kiều biên như hữu đổ.
Tây phong thê thê hàn bức nhân,
Chinh mã tần tần kinh thất lộ.
Chuỷ thủ đương thì thất thốn trường,
Độc hữu vạn trượng quang mang cắng kim cổ.

 

Dịch nghĩa

Ngoài thành Tấn Dương nước chảy cuồn cuộn
Đầu Trí Bá bị bôi sơn làm chậu đựng nước tiểu
Không ai báo thù, thật đáng thương
Bề tôi là Dự Nhượng đem thân gánh vác việc ấy
Sơn mình làm người hủi, cạo râu mày
Giữa đường ăn xin mà vợ không nhận ra
Mình mang gươm ngắn nấp dưới cầu
Giận nhìn bụng kẻ thù (muốn đâm) ngon như ăn đường
Đằng đằng sát khí không ai dám lại gần
Giữa ban ngày mà như không có ánh sáng, như có sương tuyết bay
Bị bắt, được tha, lại bị bắt, lại được tha mấy lần, lòng không đổi
Đến lúc chết còn đánh được ba lần vào áo Tương Tử
Khí lạ cao ngất ngút tận trời cao
Từ đó cầu mang tên cầu Dự Nhượng
Nghĩa lớn vua tôi cực rõ ràng
Giữa kẻ quốc sĩ và người thường, cách đối sử khác nhau
Bề tôi mà hai lòng thật đáng hổ thẹn đến chết
Nghìn xưa nghe chuyện ai cũng ngậm ngùi
Không như Kinh Kha, Nhiếp Chính
Cam chịu để cho người nuôi dưỡng mà coi nhẹ thân mình
Cái dũng khí của máu huyết họ không phải nói nhiều
Riêng có ông (Dự Nhượng) là bậc trượng phu cứng cỏi như thép
Đường qua Tam Tấn đều là gò bãi
Chăm chú nhìn bên cầu dường như có bóng ông
Gió tây lạnh buốt tê cóng người
Ngựa chiến nhiều lần hí lên sợ lạc đường
Chiếc gươm ngắn thời đó dài bảy tấc
Riêng có tia sáng dài muôn trượng rọi thấu cổ kim.


豫讓橋匕首行



Dự Nhượng kiều chuỷ thủ hành

Bài hành về chiếc gươm ngắn cầu Dự Nhượng

晉陽城外滔滔水,
Tấn Dương thành ngoại thao thao thuỷ,
Ngoài thành Tấn Dương nước chảy cuồn cuộn

智伯漆頭為溺器。
Trí Bá tất đầu vi niệu khí.
Đầu Trí Bá bị bôi sơn làm chậu đựng nước tiểu

無人報仇誠可悲,
Vô nhân báo cừu thành khả bi,
Không ai báo thù, thật đáng thương

其臣豫讓身當之。
Kỳ thần Dự Nhượng thân đương chi.
Bề tôi là Dự Nhượng đem thân gánh vác việc ấy

漆身為癩剔鬚眉,
Tất thân vi lại dịch tu mi,
Sơn mình làm người hủi, cạo râu mày

當道乞食妻不知。
Đương đạo khất thực thê bất tri.
Giữa đường ăn xin mà vợ không nhận ra

身挾匕首伏橋下,
Thân hiệp chuỷ thủ phục kiều hạ,
Mình mang gươm ngắn nấp dưới cầu

怒視仇腹甘如飴。
Nộ thị cừu phúc cam như di.
Giận nhìn bụng kẻ thù (muốn đâm) ngon như ăn đường

殺氣凜凜不可近,
Sát khí lẫm lẫm bất khả cận,
Đằng đằng sát khí không ai dám lại gần

白日無光霜雪飛。
Bạch nhật vô quang sương tuyết phi.
Giữa ban ngày mà như không có ánh sáng, như có sương tuyết bay

再擭再舍心不移,
Tái hoạch tái xả tâm bất di,
Bị bắt, được tha, lại bị bắt, lại được tha mấy lần, lòng không đổi

臨死猶能三擊衣。
Lâm tử do năng tam kích y.
Đến lúc chết còn đánh được ba lần vào áo Tương Tử

凌凌奇氣千霄上,
Lăng lăng kỳ khí thiên tiêu thượng,
Khí lạ cao ngất ngút tận trời cao

自此橋名更豫讓。
Tự thử kiều danh canh Dự Nhượng.
Từ đó cầu mang tên cầu Dự Nhượng

君臣大義最分明,
Quân thần đại nghĩa tối phân minh,
Nghĩa lớn vua tôi cực rõ ràng

國士眾人各易尙。
Quốc sĩ chúng nhân các dị thượng.
Giữa kẻ quốc sĩ và người thường, cách đối sử khác nhau

愧剎人臣懷二心,
Quý sát nhân thần hoài nhị tâm,
Bề tôi mà hai lòng thật đáng hổ thẹn đến chết

千古聞之色惆悵。
Thiên cổ văn chi sắc trù trướng.
Nghìn xưa nghe chuyện ai cũng ngậm ngùi

不是荊軻聶政徒,
Bất thị Kinh Kha Nhiếp Chính đồ,
Không như Kinh Kha, Nhiếp Chính

甘人豢養輕其軀。
Cam nhân hoạn dưỡng khinh kỳ khu.
Cam chịu để cho người nuôi dưỡng mà coi nhẹ thân mình

血氣之勇不足道,
Huyết khí chi dũng bất túc đạo,
Cái dũng khí của máu huyết họ không phải nói nhiều

君獨錚錚鐵丈夫。
Quân độc tranh tranh thiết trượng phu.
Riêng có ông (Dự Nhượng) là bậc trượng phu cứng cỏi như thép

路經三晉皆丘土,
Lộ kinh Tam Tấn giai khâu thổ,
Đường qua Tam Tấn đều là gò bãi

注目橋邊如有睹。
Chú mục kiều biên như hữu đổ.
Chăm chú nhìn bên cầu dường như có bóng ông

西風凄凄寒逼人,
Tây phong thê thê hàn bức nhân,
Gió tây lạnh buốt tê cóng người

征馬頻頻驚失路。
Chinh mã tần tần kinh thất lộ.
Ngựa chiến nhiều lần hí lên sợ lạc đường

匕首當時七寸長,
Chuỷ thủ đương thì thất thốn trường,
Chiếc gươm ngắn thời đó dài bảy tấc

獨有萬丈光茫亙今古。
Độc hữu vạn trượng quang mang cắng kim cổ.
Riêng có tia sáng dài muôn trượng rọi thấu cổ kim.