Hà Nội Văn Miếu hữu cảm 河內文廟有感 • Cảm xúc khi đến Văn Miếu Hà Nội
河內文廟有感
十載空躋舊監門,
悠悠心事向誰論。
奎樓未斷宵鐘響,
碧水猶招夜月魂。
拭目沾巾吾道厄,
拂碑看字古人存。
往來時有村墟叟,
巷外扶筇默不言。
Hà Nội Văn Miếu hữu cảm
Thập tải không tê cựu Giám môn,
Du du tâm sự hướng thuỳ luân.
Khuê lâu vị đoạn tiêu chung hưởng,
Bích Thuỷ do chiêu dạ nguyệt hồn.
Thức mục triêm cân ngô đạo ách,
Phất bi khán tự cổ nhân tồn.
Vãng lai thời hữu thôn khư tẩu,
Hạng ngoại phù cùng mặc bất ngôn.
Dịch nghĩa
Đã mươi năm, nay lại bước tới cửa Giám cũ,
Nỗi lòng dằng dặc biết nói cùng ai.
Lầu Khuê Văn chưa dứt tiếng chuông đêm,
Dòng Bích Thuỷ còn gọi hồn trăng khuya.
Lau nước mắt ướt khăn vì nỗi đạo ta khốn ách,
Phủi bia cũ xem chữ, cảm thấy người xưa vẫn còn.
Thỉnh thoảng có ông lão trong xóm qua lại,
Cứ chống gậy đi trên đường ngõ chẳng nói năng gì.
河內文廟有感
Hà Nội Văn Miếu hữu cảm
Cảm xúc khi đến Văn Miếu Hà Nội
十載空躋舊監門,
Thập tải không tê cựu Giám môn,
Đã mươi năm, nay lại bước tới cửa Giám cũ,
悠悠心事向誰論。
Du du tâm sự hướng thuỳ luân.
Nỗi lòng dằng dặc biết nói cùng ai.
奎樓未斷宵鐘響,
Khuê lâu vị đoạn tiêu chung hưởng,
Lầu Khuê Văn chưa dứt tiếng chuông đêm,
碧水猶招夜月魂。
Bích Thuỷ do chiêu dạ nguyệt hồn.
Dòng Bích Thuỷ còn gọi hồn trăng khuya.
拭目沾巾吾道厄,
Thức mục triêm cân ngô đạo ách,
Lau nước mắt ướt khăn vì nỗi đạo ta khốn ách,
拂碑看字古人存。
Phất bi khán tự cổ nhân tồn.
Phủi bia cũ xem chữ, cảm thấy người xưa vẫn còn.
往來時有村墟叟,
Vãng lai thời hữu thôn khư tẩu,
Thỉnh thoảng có ông lão trong xóm qua lại,
巷外扶筇默不言。
Hạng ngoại phù cùng mặc bất ngôn.
Cứ chống gậy đi trên đường ngõ chẳng nói năng gì.