Hồi 10: Kiều mắc lừa Sở Khanh

Tác giả: Nguyễn Du | Năm sáng tác: Chưa rõ

Lầm tưởng thư hương, mắc mưu bợm Sở;
Thương thay phận bạc, trúng kế con buôn.

[…]Trước lầusau Ngưng Bích khoá xuân,
VẻVết non xa, tấm trăng gần ở chung.
1035. Bốn bề bát ngát xavời trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình, nửa cảnh, như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
1040. Tin sương luống hãy rày trôngmong mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửađến bao giờ cho phai?
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấpđắp lạnh những ai đó giờ?
1045. SânĐìnhBồng Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể gần hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
1050. Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏngọn cỏcỏ nội dàu dàu,
Chân mây, mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầmÂm thầmẦm thùngOm thòm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

1055. Chung quanh những nước non người,
Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu.
Ngậm ngùi rủ bứcTần ngần đứng rủ rèm châu,
Cách tườnglầu nghe có tiếng đâu hoạ vần.
Một chàng vừa trạc thanh xuân,
1060. Hình dungthù chải chuốt, áo khăn dịu dànggọn gàng.
Nghĩ rằng cũng mạch thư hương,
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.
Bóng nga thấp thoáng dưới mành,
Trông nàng, chàngchàng, nàng cũng ra tình đeo đaichơi vơi.
1065. “Than ôi! Sắc nước hương trời!
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây!
Giá đành trong nguyệt trên mây,
Hoa sao, hoa khéo đoạ đàydã dày bấy hoa?
NổiTứcNhớ gan riêng giận trời già,
1070. Lòng này ai tỏ cho taai, hỡi lòng?
Thuyền quyên ví biết anh hùng,
Ra tay tháo cũi, sổ lồng như chơi!”
Song thu đãnửa khép cánh ngoài,
Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh.
1075. Nghĩ người thôi, lại nghĩ mình,
Cám lòng chua xót, lạt tình chơ vơnhư vi.
Những là lần lữa nắng mưa,
Kiếp phong trần biết bao giờ là thôi?
Đánh liều nhắn một hai lời,
1080. Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.
Mảnh tiên kể hết xa gần,
Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài.
Tan sương vừa rạng ngày mai,
Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang.
1085. Trời tây lãng đãng bóng vàng,
PhúcPhục thư đã thấy tin chàng đến nơi.
Mở xem một bức tiên mai,
Rành rành “tích việt” có hai chữ đề.
Lấy trong ý tứ mà suy:
1090. “Ngày hai mươi mốt, Tuất thì phải chăng?”

Chim hôm thoi thót về rừng,
ĐoáGiá trà myđộ đã ngậm trănggương nửa vànhmành.
Tường đông lay động bóng cành,
RẽĐẩy song đã thấy Sở Khanh lẻnbước vào.
1095. Sượng sùng đánh dạn ra chào,
Lạy thôi, nàng mới rỉ trao ân cần.
Rằng: “Tôi bèo bọt chút thân,
Lạc đànđàng mang lấy nợ nần yến anh.
Dám nhờ cốt nhục tử sinh,
1100. Còn nhiều kết cỏ ngậm vànhđà về sau!”
Lặng ngồi lẩm nhẩmngồi thấm thíanghe tẩm ngẩmngồi tủm tỉmngồi xẩm tiếng gật đầu:
“Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng!
Nàng đà biết đến ta chăng,
BểNỗi trầm luân lấp cho bằng mới thôi!”
1105. Nàng rằng: “Muôn sự ơn người,
Thế nào xin quyết một bài cho xong.”
Rằng: “Ta có ngựa truy phong,
Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi.
Thừa cơ lẻn bước ra đi,
1110. Ba mươi sáu chước, chước gì lại hơn?
Dù khi gió kép, mưa đơn,
Có ta đây cũng chẳng can cớ gì!”
Nghe lời, nàng đã sinh nghi,
Song đà quá đỗiđấtđến, quản gì được thân.
1115. Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu!
Cùng nhau lẻn bước xuốngdưới lầu,
Song song ngựa trước, ngựa sau một đoàn.
Đêm thu khắc lậuvợi canh tàn,
1120. Gió câyrừng trút lá, trăng ngàn ngậm gương.
Lối mòn cỏ lợt mùilướt mướt hơi sương,
Lòng quê đi một bước đường một đau.
Tiếng gà xao xác gáy mau,
Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng.
1125. Nàng càng thổn thức gan vàng,
Sở Khanh đã rẽtrẽ dây cương lối nào!
Một mình khôn biết làm sao,
Dặm rừng bước thấp bước cao hãi hùng.

Thể loại:
Trích dẫn:
Đoạn này ứng với Hồi 9 trong nguyên truyện: “Tích đa tài nhận tác tặc tử; Khanh bạc mệnh giai hiệp đồ tài” 惜多才認作賊子;坑薄命偕俠圖財 (Tiếc tài hoa, lầm bất lương thành lương thiện; Chôn mệnh bạc, vờ hoà hiệp để xoay tiền).

[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]

Thẻ: