Kỳ lân mộ 騏麟墓 • Mộ kỳ lân

Tác giả: Nguyễn Du | Năm sáng tác: Chưa rõ

騏麟墓

河北道中五尺豐碑當大路,
中有楷字大書騏麟墓。
道傍故老為余言,
永樂四年貢麟道死喪此土。
官命立碑用存故,
此事迄今已經古。
但見官道蕩蕩無丘陵,
其旁不封亦不樹。
片石傾欺苔蘚蔓,
淒風朝吹暮苦雨。
吁嗟麟兮何由睹,
吁嗟麟兮天上祥。
骨肉委之虫蛾蠹,
麟兮麟兮爾何苦。
何況燕棣何如人,
奪姪自立非仁君。
暴怒一逞夷十族,
大棒巨鑊烹忠臣。
五年所殺百餘萬,
白骨成山地血殷。
麟兮果為此人出,
大是妖物何足珍。
或是爾生不忍見殺戮,
先就此地捐其身。
吁嗟仁獸兮騏麟。
於世不見以為祥,
見之不過同犬羊。
若道能為聖人出,
當世何不南遊翔。

 

Kỳ lân mộ

Hà Bắc đạo trung ngũ xích phong bi đương đại lộ,
Trung hữu khải tự đại thư kỳ lân mộ.
Đạo bàng cố lão vị dư ngôn,
Vĩnh Lạc tứ niên cống lân đạo tử táng thử thổ.
Quan mệnh lập bi dụng tồn cố,
Thử sự hất kim dĩ kinh cổ.
Đãn kiến quan đạo đãng đãng vô khâu lăng,
Kỳ bàng bất phong diệc bất thụ.
Phiến thạch khuynh khi đài tiển man,
Thê phong triêu xuy mộ khổ vũ.
Hu ta lân hề hà do đổ,
Hu ta lân hề thiên thượng tường.
Cốt nhục uỷ chi trùng nghĩ đố,
Lân hề lân hề nhĩ hà khổ.
Hà huống Yên Đệ hà như nhân,
Đoạt điệt tự lập phi nhân quân.
Bạo nộ nhất sính di thập tộc,
Đại bổng cự hoạch phanh trung thần
.
Ngũ niên sở sát bách dư vạn,
Bạch cốt thành sơn địa huyết an.
Lân hề quả vị thử nhân xuất,
Đại thị yêu vật hà túc trân.
Hoặc thị nhĩ sinh bất nhẫn kiến sát lục,
Tiên tựu thử địa quyên kỳ thân.
Hu ta nhân thú hề kỳ lân.
Ư thế bất kiến dĩ vi tường,
Kiến chi bất quá đồng khuyển dương.
Nhược đạo năng vị thánh nhân xuất,
Đương thế hà bất nam du tường.

 

Dịch nghĩa

Trên đường đi Hà Bắc có tấm bia cao năm thước dựng bên đường cái.
Trong có mấy chữ viết to theo lối chữ chân: “Mộ Kỳ Lân”
Ông lão ở bên đường bảo ta rằng:
“Năm Vĩnh Lạc thứ tư, con kỳ lân đem cống vua, chết giũa đường, chôn tại đây.
Quan trên cho dựng bia để ghi lại việc cũ.”
Việc ấy đến nay đã lâu rồi,
Nay chỉ còn thấy con đường cái quan bằng phẳng không gò đống
Cạnh bia chẳng đắp mộ cũng không trồng cây.
Phiến đá xiêu vẹo, rêu phủ mờ,
Sáng gió lạnh thổi, chiều mưa dầm dề tuôn,
Than ôi, kỳ lân vì đâu mày hiện ra?
Than ôi, kỳ lân là giống vật báo điềm lành ở trên trời!
Nay xương thịt bỏ cho sâu kiến đục.
Ôi kỳ lân! Ôi kỳ lân! Sao mày khổ thế!
Huống nữa Yên Đệ là người như thế nào?
Cướp ngôi của cháu để tự lập làm vua, y không phải là bậc nhân quân.
Để hả một cơn giận y giết cả mười họ (người ta)
Giết trung thần bằng cách đánh bằng gậy lớn và nấu trong vạc dầu lớn.
Trong năm năm giết trên trăm vạn mạng người,
Xương trắng chất thành núi, đất ngập máu.
Ôi kỳ lân! nếu mày vì kẻ ấy mà hiện ra,
Thì mày chỉ là đồ yêu quái, có gì đáng quý?
Hoặc là mày sống ở đời không nỡ nhìn cảnh chém giết,
Nên đến chỗ này mày chết trước.
Than ôi! kỳ lân là loài thú có đức nhân!
Trên trời chẳng thấy nên cho là điềm lành.
Thấy thì chẳng qua cũng như loài chó dê.
Nếu bảo kỳ lân vì thánh nhân mà hiện ra.
Thì thời ấy sao không lượn chơi sang phương Nam?


騏麟墓



Kỳ lân mộ

Mộ kỳ lân

河北道中五尺豐碑當大路,
Hà Bắc đạo trung ngũ xích phong bi đương đại lộ,
Trên đường đi Hà Bắc có tấm bia cao năm thước dựng bên đường cái.

中有楷字大書騏麟墓。
Trung hữu khải tự đại thư kỳ lân mộ.
Trong có mấy chữ viết to theo lối chữ chân: “Mộ Kỳ Lân”

道傍故老為余言,
Đạo bàng cố lão vị dư ngôn,
Ông lão ở bên đường bảo ta rằng:

永樂四年貢麟道死喪此土。
Vĩnh Lạc tứ niên cống lân đạo tử táng thử thổ.
“Năm Vĩnh Lạc thứ tư, con kỳ lân đem cống vua, chết giũa đường, chôn tại đây.

官命立碑用存故,
Quan mệnh lập bi dụng tồn cố,
Quan trên cho dựng bia để ghi lại việc cũ.”

此事迄今已經古。
Thử sự hất kim dĩ kinh cổ.
Việc ấy đến nay đã lâu rồi,

但見官道蕩蕩無丘陵,
Đãn kiến quan đạo đãng đãng vô khâu lăng,
Nay chỉ còn thấy con đường cái quan bằng phẳng không gò đống

其旁不封亦不樹。
Kỳ bàng bất phong diệc bất thụ.
Cạnh bia chẳng đắp mộ cũng không trồng cây.

片石傾欺苔蘚蔓,
Phiến thạch khuynh khi đài tiển man,
Phiến đá xiêu vẹo, rêu phủ mờ,

淒風朝吹暮苦雨。
Thê phong triêu xuy mộ khổ vũ.
Sáng gió lạnh thổi, chiều mưa dầm dề tuôn,

吁嗟麟兮何由睹,
Hu ta lân hề hà do đổ,
Than ôi, kỳ lân vì đâu mày hiện ra?

吁嗟麟兮天上祥。
Hu ta lân hề thiên thượng tường.
Than ôi, kỳ lân là giống vật báo điềm lành ở trên trời!

骨肉委之虫蛾蠹,
Cốt nhục uỷ chi trùng nghĩ đố,
Nay xương thịt bỏ cho sâu kiến đục.

麟兮麟兮爾何苦。
Lân hề lân hề nhĩ hà khổ.
Ôi kỳ lân! Ôi kỳ lân! Sao mày khổ thế!

何況燕棣何如人,
Hà huống Yên Đệ hà như nhân,
Huống nữa Yên Đệ là người như thế nào?

奪姪自立非仁君。
Đoạt điệt tự lập phi nhân quân.
Cướp ngôi của cháu để tự lập làm vua, y không phải là bậc nhân quân.

暴怒一逞夷十族,
Bạo nộ nhất sính di thập tộc,
Để hả một cơn giận y giết cả mười họ (người ta)

大棒巨鑊烹忠臣。
Đại bổng cự hoạch phanh trung thần.
Giết trung thần bằng cách đánh bằng gậy lớn và nấu trong vạc dầu lớn.

五年所殺百餘萬,
Ngũ niên sở sát bách dư vạn,
Trong năm năm giết trên trăm vạn mạng người,

白骨成山地血殷。
Bạch cốt thành sơn địa huyết an.
Xương trắng chất thành núi, đất ngập máu.

麟兮果為此人出,
Lân hề quả vị thử nhân xuất,
Ôi kỳ lân! nếu mày vì kẻ ấy mà hiện ra,

大是妖物何足珍。
Đại thị yêu vật hà túc trân.
Thì mày chỉ là đồ yêu quái, có gì đáng quý?

或是爾生不忍見殺戮,
Hoặc thị nhĩ sinh bất nhẫn kiến sát lục,
Hoặc là mày sống ở đời không nỡ nhìn cảnh chém giết,

先就此地捐其身。
Tiên tựu thử địa quyên kỳ thân.
Nên đến chỗ này mày chết trước.

吁嗟仁獸兮騏麟。
Hu ta nhân thú hề kỳ lân.
Than ôi! kỳ lân là loài thú có đức nhân!

於世不見以為祥,
Ư thế bất kiến dĩ vi tường,
Trên trời chẳng thấy nên cho là điềm lành.

見之不過同犬羊。
Kiến chi bất quá đồng khuyển dương.
Thấy thì chẳng qua cũng như loài chó dê.

若道能為聖人出,
Nhược đạo năng vị thánh nhân xuất,
Nếu bảo kỳ lân vì thánh nhân mà hiện ra.

當世何不南遊翔。
Đương thế hà bất nam du tường.
Thì thời ấy sao không lượn chơi sang phương Nam?