Ngôn chí bài 18 (Một thuyền câu)

Tác giả: Nguyễn Trãi | Năm sáng tác: Chưa rõ

Thương Lang[1] mấy khảm một thuyền câu,
Cảnh lạ đêm thanh hứng bởi đâu.
Nguyệt mọc đầu non kình[2] dõi tiếng,
Khói tan mặt nước thận[3] không lầu.
Giang sơn dạm được đồ hai bức,
Thế giới đông nên ngọc một bầu.
Ta ắt lòng mừng Văn Chính[4] nữa,
Vui xưa chẳng quản đeo âu.

Trích dẫn:

Chú thích:

[1]
Thương Lang 滄浪: Tên sông. Khuất Nguyên 屈原 (343-? trước CN) trong bài Ngư phủ có câu: “Thương Lang chi thuỷ thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh; Thương Lang chi thuỷ trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc” 滄浪之水清兮,可以濯我纓。滄浪之水濁兮,可以濯我足 (Nước sông Thương Lang trong hề, có thể giặt dải mũ của ta; Nước sông Thương Lang đục hề, có thể rửa chân ta).

» Có 18 bài cùng chú thích:
  • (Nguyễn Huy Lượng)
  • (Nguyễn Trãi)
  • (Nguyễn Trãi)
  • (Nguyễn Trãi)
  • (Đỗ Phủ)
  • (Nguyễn Ức)
  • (Thái Thuận)
  • (Khuyết danh Trung Quốc)
  • (Nguyễn Phúc Ưng Bình)
  • (Nguyễn Phúc Ưng Bình)
  • (Nguyễn Phúc Ưng Bình)
  • (Trương Hán Siêu)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Chu Di Tôn)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Đoàn Nguyễn Tuấn)
  • (Phạm Đình Hổ)
  • (Ngô Thì Nhậm)
[2]
Kình 鯨: Theo truyền thuyết, bồ lao 蒲牢 là tên một loài thú ở biển, rất sợ cá kình, khi bị cá kình đánh thì rống lên. Làm chày nện chuông hình cá kình để chuông kêu lớn.

» Có 8 bài cùng chú thích:
  • (Hồ Tằng)
  • (Lê Thánh Tông)
  • (Lê Thánh Tông)
  • (Nguyễn Trãi)
  • (Nguyễn Trãi)
  • (Nguyễn Trãi)
  • (Trần Đình Tân)
  • (Đoàn Nguyễn Tuấn)
[3]
Thận 蜃: Một tiếng gọi tóm cả các loài sò hến. Ánh sáng soi bể giọi lên trên không thành ra lâu đài tráng lệ, muôn hình ngàn trạng. Ngày xưa cho là vì con sò thần nó hoá ra và gọi là thận lâu hải thị 蜃樓海市 chợ biển lầu thận, chỉ cảnh tượng hư ảo.

» Có 2 bài cùng chú thích:
  • (Tống Liêm)
  • (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
[4]
Văn Chính 文正: Tên thuỵ của Phạm Trọng Yêm 范仲淹(989-1052). Bài Nhạc Dương lâu ký 岳陽樓記 của ông có câu: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” 先天下之憂而憂,後天下之樂而樂 (Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ).
Thẻ: