Thái Bình mại ca giả 太平賣歌者 • Người hát rong ở Thái Bỉnh
太平賣歌者
太平瞽師粗布衣,
小兒牽挽行江湄。
云是城外老乞子,
賣歌乞錢供晨炊。
鄰舟時有好音者,
牽手引上船窗下。
此時船中暗無燈,
棄飯潑水殊狼藉。
摸索引身向坐隅,
再三舉手稱多謝。
手挽弦索口作聲,
且彈且歌無暫停。
聲音殊異不得辨,
但覺嘹喨殊可聽。
舟子寫字為余道,
此曲世民與建成。
觀者十數並無語,
但見江風蕭蕭江月明。
口噴白沫手酸縮,
卻坐斂弦告終曲。
殫盡心力幾一更,
所得銅錢僅五六。
小兒引得下船來,
猶且回顧禱多福。
我乍見之悲且辛,
凡人愿死不愿貧。
只道中華盡溫飽,
中華亦有如此人。
君不見使船朝來供頓例,
一船一船盈肉米。
行人飽食便棄餘,
殘肴冷飯沉江底。
Thái Bình mại ca giả
Thái Bình cổ sư thô bố y,
Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi.
Vân thị thành ngoại lão khất tử,
Mại ca khất tiền cung thần xuy.
Lân chu thời hữu hiếu âm giả,
Khiên thủ dẫn thướng thuyền song hạ.
Thử thời thuyền trung ám vô đăng,
Khí phạn bát thuỷ thù lang tạ.
Mô sách dẫn thân hướng toạ ngung,
Tái tam cử thủ xưng đa tạ.
Thủ vãn huyền sách khẩu tác thanh,
Thả đàn thả ca vô tạm đình.
Thanh âm thù dị bất đắc biện,
Đãn giác liệu lượng thù khả thinh (thính).
Chu tử tả tự vị dư đạo,
Thử khúc Thế Dân dữ Kiến Thành.
Quan giả thập số tịnh vô ngữ,
Đãn kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh.
Khẩu phún bạch mạt, thủ toan súc,
Khước toạ, liễm huyền, cáo chung khúc.
Đàn tận tâm lực cơ nhất canh,
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục.
Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai,
Do thả hồi cố đảo đa phúc.
Ngã sạ kiến chi, bi thả tân,
Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần.
Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão,
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân.
Quân bất kiến sứ thuyền triêu lai cung đốn lệ,
Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ.
Hành nhân bão thực tiện khí dư,
Tàn hào lãnh phạn trầm giang để.
Dịch nghĩa
Ở phủ Thái Bình có người mù mặc áo vải thô
Có đứa trẻ dẫn đi bờ sông
Nói rằng ông già ăn xin ở ngoài thành
Hát mướn xin tiền nấu ăn
Thuyền bên có người ưa nghe hát
Cầm tay dẫn xuống thuyền dưới cửa sổ
Lúc này trong thuyền tối không đèn
Cơm thừa canh cặn đổ bừa bãi
Ông già lần mò ngồi vào một góc
Hai ba lần giơ tay xin cám ơn
Tay nắn dây đàn, miệng cất tiếng hát
Vừa đàn vừa ca không nghỉ
Tiếng nghe lạ hoắc không hiểu được
Chỉ thấy như chim hót trong trẻo tai dễ nghe
Nhà thuyền viết chữ bảo ta rằng:
Khúc hát này nói về Thế Dân và Kiến Thành
Người nghe khoảng chục người đều im lặng
Chỉ thấy gió sông vi vu dưới trăng sáng
Miệng sùi nước bọt, tay mỏi rã rời
Ngồi xuống, xếp đàn, nói rằng hát đã xong
Hết lòng hết sức đàn gần một trống canh
Văy mà chỉ đuợc năm sáu đòng
Đứa em dẫn ra khỏi thuyền
Còn quay đầu lại chúc lành
Chợt thấy ta bồi hồi thương xót
Phàm nguuời ta thà chết hơn sống nghèo
Nghe nói ở Trung Hoa mọi người đều được ấm no
Ở Trung Hoa cũng có người nghèo như thế sao
Anh không thấy lệ cung phụng thuyền đi sứ mỗi ngày
Từng thuyền từng thuyền thịt gạo đày
Người đi thuyền ăn no, thừa vứt bỏ
Cơm nguội, thức ăn đổ chìm xuống đáy sông
太平賣歌者
Thái Bình mại ca giả
Người hát rong ở Thái Bỉnh
太平瞽師粗布衣,
Thái Bình cổ sư thô bố y,
Ở phủ Thái Bình có người mù mặc áo vải thô
小兒牽挽行江湄。
Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi.
Có đứa trẻ dẫn đi bờ sông
云是城外老乞子,
Vân thị thành ngoại lão khất tử,
Nói rằng ông già ăn xin ở ngoài thành
賣歌乞錢供晨炊。
Mại ca khất tiền cung thần xuy.
Hát mướn xin tiền nấu ăn
鄰舟時有好音者,
Lân chu thời hữu hiếu âm giả,
Thuyền bên có người ưa nghe hát
牽手引上船窗下。
Khiên thủ dẫn thướng thuyền song hạ.
Cầm tay dẫn xuống thuyền dưới cửa sổ
此時船中暗無燈,
Thử thời thuyền trung ám vô đăng,
Lúc này trong thuyền tối không đèn
棄飯潑水殊狼藉。
Khí phạn bát thuỷ thù lang tạ.
Cơm thừa canh cặn đổ bừa bãi
摸索引身向坐隅,
Mô sách dẫn thân hướng toạ ngung,
Ông già lần mò ngồi vào một góc
再三舉手稱多謝。
Tái tam cử thủ xưng đa tạ.
Hai ba lần giơ tay xin cám ơn
手挽弦索口作聲,
Thủ vãn huyền sách khẩu tác thanh,
Tay nắn dây đàn, miệng cất tiếng hát
且彈且歌無暫停。
Thả đàn thả ca vô tạm đình.
Vừa đàn vừa ca không nghỉ
聲音殊異不得辨,
Thanh âm thù dị bất đắc biện,
Tiếng nghe lạ hoắc không hiểu được
但覺嘹喨殊可聽。
Đãn giác liệu lượng thù khả thinh.
Chỉ thấy như chim hót trong trẻo tai dễ nghe
舟子寫字為余道,
Chu tử tả tự vị dư đạo,
Nhà thuyền viết chữ bảo ta rằng:
此曲世民與建成。
Thử khúc Thế Dân dữ Kiến Thành.
Khúc hát này nói về Thế Dân và Kiến Thành
觀者十數並無語,
Quan giả thập số tịnh vô ngữ,
Người nghe khoảng chục người đều im lặng
但見江風蕭蕭江月明。
Đãn kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh.
Chỉ thấy gió sông vi vu dưới trăng sáng
口噴白沫手酸縮,
Khẩu phún bạch mạt, thủ toan súc,
Miệng sùi nước bọt, tay mỏi rã rời
卻坐斂弦告終曲。
Khước toạ, liễm huyền, cáo chung khúc.
Ngồi xuống, xếp đàn, nói rằng hát đã xong
殫盡心力幾一更,
Đàn tận tâm lực cơ nhất canh,
Hết lòng hết sức đàn gần một trống canh
所得銅錢僅五六。
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục.
Văy mà chỉ đuợc năm sáu đòng
小兒引得下船來,
Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai,
Đứa em dẫn ra khỏi thuyền
猶且回顧禱多福。
Do thả hồi cố đảo đa phúc.
Còn quay đầu lại chúc lành
我乍見之悲且辛,
Ngã sạ kiến chi, bi thả tân,
Chợt thấy ta bồi hồi thương xót
凡人愿死不愿貧。
Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần.
Phàm nguuời ta thà chết hơn sống nghèo
只道中華盡溫飽,
Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão,
Nghe nói ở Trung Hoa mọi người đều được ấm no
中華亦有如此人。
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân.
Ở Trung Hoa cũng có người nghèo như thế sao
君不見使船朝來供頓例,
Quân bất kiến sứ thuyền triêu lai cung đốn lệ,
Anh không thấy lệ cung phụng thuyền đi sứ mỗi ngày
一船一船盈肉米。
Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ.
Từng thuyền từng thuyền thịt gạo đày
行人飽食便棄餘,
Hành nhân bão thực tiện khí dư,
Người đi thuyền ăn no, thừa vứt bỏ
殘肴冷飯沉江底。
Tàn hào lãnh phạn trầm giang để.
Cơm nguội, thức ăn đổ chìm xuống đáy sông