Thục đạo nan 蜀道難 • Đường Thục khó

Tác giả: Lý Bạch | Năm sáng tác: 732

蜀道難

噫吁戲!
危乎高哉!
蜀道之難難於上青天!
蠶叢及魚鳧,
開國何茫然。
爾來四萬八千歲,
不與秦塞通人煙。
西當太白有鳥道,
可以橫絕峨眉巔。
地崩山摧壯士死,
然後天梯石棧方鉤連。
上有六龍回日之高標,
下有衝波逆折之回川。
黃鶴之飛尚不得過,
猿猱欲度愁攀援。
青泥何盤盤,
百步九折縈巖巒。
捫參歷井仰脅息,
以手撫膺坐長歎。
問君西遊何時還?
畏途巉巖不可攀。
但見悲鳥號古木,
雄飛雌從繞林間。
又聞子規啼夜月,愁空山,
蜀道之難難於上青天,
使人聽此凋朱顏。
連峯去天不盈尺,
枯松倒掛倚絕壁。
飛湍瀑流爭喧豗,
砅厓轉石萬壑雷。
其險也如此,
嗟爾遠道之人,
胡為乎來哉!
劍閣崢嶸而崔嵬,
一夫當關,
萬夫莫開。
所守或匪親,
化為狼與豺。
朝避猛虎,
夕避長蛇。
磨牙吮血,
殺人如麻。
錦城雖云樂,
不如早還家。
蜀道之難難於上青天,
側身西望長咨嗟。

 

Thục đạo nan

Y hu hy!
Nguy hồ cao tai!
Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên!
,
Khai quốc hà mang nhiên.
Nhĩ lai tứ vạn bát thiên tuế,
Bất dữ tái thông nhân yên.
Tây đương hữu ,
Khả dĩ hoành tuyệt điên.
Địa băng sơn tồi tráng sĩ tử,
Nhiên hậu thiên thê thạch sạn phương câu liên.
Thượng hữu lục long hồi nhật chi cao tiêu,
Hạ hữu xung ba nghịch chiết chi hồi xuyên.
Hoàng hạc chi phi thượng bất đắc quá,
Viên nhu dục độ sầu phan viên.
hà bàn bàn,
Bách bộ cửu chiết oanh nham loan.
Môn lịch ngưỡng hiếp tức,
Dĩ thủ phủ ưng toạ trường thán.
Vấn quân tây du hà thời hoàn?
Uý đồ sàm nham bất khả phan.
Đãn kiến bi điểu hào cổ mộc,
Hùng phi thư tòng nhiễu lâm gian.
Hữu văn đề dạ nguyệt, sầu không san.
Thục đạo chi nan nan ư thướng thanh thiên,
Sử nhân thính thử điêu chu nhan.
Liên phong khứ thiên bất doanh xích,
Khô tùng đảo quải ỷ tuyệt bích.
Phi thoan bộc lưu tranh huyên hôi,
Lệ nhai chuyển thạch vạn hác lôi.
Kỳ hiểm dã như thử,
Ta nhĩ viễn đạo chi nhân,
Hồ vi hồ lai tai!
tranh vanh nhi thôi ngôi,
Nhất phu đang quan,
Vạn phu mạc khai.
Sở thủ hoặc phỉ thân,
Hoá vi lang dữ sài.
Triều tị mãnh hổ,
Tịch tị trường xà.
Ma nha duyện huyết,
Sát nhân như ma.
Cẩm thành tuy vân lạc,
Bất như tảo hoàn gia.
Thục đạo chi nan nan ư thướng thanh thiên,
Trắc thân tây vọng trường tư ta.

 

Dịch nghĩa

Ôi,
Nguy hiểm thay, cao thay!
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh.
Các vua Tàm Tùng và Ngư Phù
Ở chốn xa xôi biết bao!
Từ đó đến nay, đã bốn vạn tám nghìn năm,
Mới thông suốt với chỗ có khói người ở ải Tần.
Phía tây là núi Thái Bạch có đường chim bay,
Có thể vắt ngang đến tận đỉnh núi Nga Mi.
Đất lở, núi sập, tráng sĩ chết,
Rồi mới có thang trời, đường đá móc nối liền nhau.
Phía trên có ngọn cao sáu rồng lượn quanh mặt trời.
Phía dưới có dòng sông uốn khúc sóng xô rẽ ngược.
Hạc vàng còn không bay qua được;
Vượn khỉ muốn vượt qua, cũng buồn khi vin tới, leo trèo.
Rặng núi Thanh Nê khuất khúc biết bao!
Cứ trăm bước lại có chín khúc quặt vòng quanh núi non hiểm trở.
Đứng trên cao, tưởng chứng như mó được sao Sâm, lướt qua sao Tỉnh ngẩng trông nín thở,
Đưa tay vỗ bụng, ngồi than thở hoài.
Hỏi bạn đi chơi phía Tây, bao giờ trở lại?
Đường đi cheo leo, nguy hiểm, không với tới được.
Chỉ nghe thấy tiếng chim kêu đau thương trong hàng cây cổ thụ,
Con trống bay theo con mái, lượn quanh trong rừng.
Lại nghe thấy tiếng chim tứ quí kêu dưới bóng trăng đêm, buồn trong núi vắng.
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh.
Khiến người ta nghe nói đến cảnh đó, phải héo hắt vẻ mặt trẻ trung.
Các ngọn núi liền nhau, cách trời không đầy một thước.
Cây thông khô vắt vẻo tựa vào vách đá cao ngất.
Nước bay, thác chảy đua tiếng ào ào.
Đập vào sườn núi, rung động đá, muôn khe suối vang ầm như sấm.
Đường Thục hiểm trở là như thế!
Thương thay cho các bạn, những người đi đường xa,
Tại sao đến nơi đây?
Miền Kiếm Các cheo leo, chót vót!
Chỉ một người canh giữ ải,
Đến muôn người cũng không mở nổi.
Những kẻ giữ ải có thể không phải là người thân,
Lại biến đổi thành ra loài sài lang.
Còn những người đi đường thì ban sáng phải lánh cọp dữ,
Buổi tối phải tránh rắn dài;
Bọn chúng mài nanh, hút máu,
Giết hại người nhiều như cây gai.
Thành Cẩm Quan tuy rằng có vui,
Nhưng sao bằng sớm trở về nhà.
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh.
Nghiêng mình trông sang phía tây, than thở hoài.

Thể loại:

Trích dẫn: Thục là tên nước cũ thời Xuân Thu, nay là tỉnh Tứ Xuyên.

Thẻ: