Trấn Bắc tự 鎮北寺 • Chùa Trấn Quốc

Tác giả: Hồ Xuân Hương | Năm sáng tác: Chưa rõ

鎮北寺

莊臨誰是景中人,
細細清風扇扇薰。
水月波籠蓮插茁,
香煙寶憩露連雲。
洗空塵慮花含態,
喚醒迷途草亦春。
到景令人回首望,
東南拂袖鴈成群。

 

Trấn Bắc tự

Trang lâm thuỳ thị cảnh trung nhân,
Tế tế thanh phong phiến phiến huân.
Thuỷ nguyệt ba lung liên tháp truất,
Hương yên bảo khế lộ liên vân.
Tẩy không trần lự hoa hàm thái,
Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc xuân.
Đáo cảnh linh nhân hồi thủ vọng,
Đông nam phất tụ nhạn thành quần.

 

Dịch nghĩa

Trang trọng tới nơi, ai là người trong cảnh,
Nhè nhẹ gió mát quạt từng làn hơi thơm.
Trăng nước sóng vờn sen chen nụ,
Khói hương tàn bám móc liền mây.
Tẩy sạch trần tục phiền não, hoa e ấp,
Đường mê gọi tỉnh, cỏ cây phô sắc xuân.
Gặp cảnh khuyên người quay đầu ngắm,
Hướng đông nam phất áo vẫy nhạn bay thành đàn.


鎮北寺



Trấn Bắc tự

Chùa Trấn Quốc

莊臨誰是景中人,
Trang lâm thuỳ thị cảnh trung nhân,
Trang trọng tới nơi, ai là người trong cảnh,

細細清風扇扇薰。
Tế tế thanh phong phiến phiến huân.
Nhè nhẹ gió mát quạt từng làn hơi thơm.

水月波籠蓮插茁,
Thuỷ nguyệt ba lung liên tháp truất,
Trăng nước sóng vờn sen chen nụ,

香煙寶憩露連雲。
Hương yên bảo khế lộ liên vân.
Khói hương tàn bám móc liền mây.

洗空塵慮花含態,
Tẩy không trần lự hoa hàm thái,
Tẩy sạch trần tục phiền não, hoa e ấp,

喚醒迷途草亦春。
Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc xuân.
Đường mê gọi tỉnh, cỏ cây phô sắc xuân.

到景令人回首望,
Đáo cảnh linh nhân hồi thủ vọng,
Gặp cảnh khuyên người quay đầu ngắm,

東南拂袖鴈成群。
Đông nam phất tụ nhạn thành quần.
Hướng đông nam phất áo vẫy nhạn bay thành đàn.

Thể loại:
Trích dẫn:

( ): Chùa Trấn Quốc nằm trên một hòn đảo phía đông Hồ Tây, gần đường Thanh Niên, thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chùa có lịch sử gần 1500 năm và được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội. Thời nhà Lý và nhà Trần, đây là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long. Kiến trúc chùa có sự kết hợp hài hoà giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một hồ nước mênh mang. Chùa được dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế, 541-547), tại thôn Y Hoa, gần bờ sông Hồng, nguyên tên là chùa Khai Quốc. Đời Lê Trung Hưng (1615), chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thuý Hoa (thời Lý) và điện Hàn Nguyên (thời Trần). Trong các năm 1624, 1628 và 1639, chùa tiếp tục được trùng tu, mở rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1639 về công việc tôn tạo này. Đầu đời Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. Năm 1821, vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.

Hình: Chùa Trấn Quốc

» Có 22 nội dung nhắc tới:
  • (Bà huyện Thanh Quan)
  • (Bùi Cơ Túc)
  • (Cao Bá Quát)
  • (Chu Nguyễn Lâm)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Khuyết danh Việt Nam)
  • (Lê Thánh Tông)
  • (Lý Văn Phức)
  • (Ngô Thì Sĩ)
  • (Nguyễn Hành)
  • (Ninh Tốn)
  • (Phạm Đình Hổ)
  • (Phạm Quý Thích)
  • (Vũ Tông Phan)

[Thông tin 3 nguồn tham khảo đã được ẩn]

Thẻ: